CỤC BẢO TỒN THIÊN NHIÊN VÀ ĐA DẠNG SINH HỌC
TRUNG TÂM ĐIỀU TRA, THÔNG TIN VÀ DỮ LIỆU VỀ MÔI TRƯỜNG, ĐA DẠNG SINH HỌC
CEBID

Hội nhập quốc tế về bảo tồn tài nguyên thiên nhiên

0

Hội nhập quốc tế về bảo tồn tài nguyên thiên nhiên liên quan đến Công ước CBD; Công ước RAMSAR; Công ước CITES; Công ước UNCCD và một số điều ước quốc tế khác có liên quan như Nghị định thư CARTAGENA; Nghị định thư NAGOYA

Công ước CBD

Khái quát về Công ước và sự tham gia của Việt Nam

Ngày 22 tháng 5 năm 1992 các quốc gia trên thế giới đã thông qua một Công ước toàn cầu về đa dạng sinh học (Công ước CBD) tại Nairobi. Công ước CBD có hiệu lực vào ngày 29 tháng 12 năm 1993. Tính đến nay đã có 196 nước thành viên tham gia Công ước này.

Mục tiêu của Công ước là bảo toàn đa dạng sinh học, sử dụng lâu bền các bộ phận hợp thành của nó và phân phối công bằng hợp lý lợi ích có được nhờ việc khai thác và sử dụng nguồn gen bao gồm cả việc tiếp cận hợp lý nguồn gen và chuyển giao thích hợp công nghệ cần thiết có tính đến các quyền sở hữu tài nguyên, công nghệ, nhờ có các tài trợ thích đáng.

Nguyên tắc của Công ước: Các quốc gia, phù hợp với Hiến chương Liên Hợp Quốc và các nguyên tắc luật pháp quốc tế có toàn quyền khai thác các tài nguyên của họ theo các chính sách mà họ đề ra; và có trách nhiệm bảo đảm rằng các hoạt động trong phạm vi thẩm quyền hay kiểm soát của họ không làm phương hại đến môi trường của các quốc gia khác hoặc các khu vực không thuộc thẩm quyền quốc gia.

Việt Nam ký kết tham gia Công ước này vào ngày 28 tháng 5 năm 1993, được phê chuẩn vào ngày 16 tháng 11 năm 1994 và trở thành thành viên chính thức của Công ước vào ngày 14 tháng 2 năm 1995 và là một trong những quốc gia đầu tiên phê chuẩn Công ước. Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm làm Cơ quan đầu mối quốc gia thực hiện Công ước này.

Nội luật hóa, xây dựng chính sách, pháp luật

Để hoàn thiện hệ thống pháp luật về đa dạng sinh học, luật hóa có hệ thống và thống nhất các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, thực hiện các cam kết quốc tế về đa dạng sinh học phục vụ mục tiêu phát triển bền vững đất nước, Luật Đa dạng sinh học đã được Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 13 tháng 11 năm 2008 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2009 nhằm đáp ứng các yêu cầu trên. Luật có 8 chương, 78 điều. Luật quy định về nguyên tắc và chính sách bảo tồn và phát triển bền vững đa dạng sinh học; quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học; bảo tồn và phát triển bền vững hệ sinh thái tự nhiên, các loài sinh vật và tài nguyên di truyền; hợp tác quốc tế về đa dạng sinh học; cơ chế, nguồn lực và phát triển bền vững đa dạng sinh học. Các nội dung cơ bản của Công ước Đa dạng sinh học đã được nội luật hóa trong Luật Đa dạng sinh học, cụ thể:

Thứ nhất, quy định rõ và đầy đủ về nội dung và trình tự, thủ tục lập, thẩm định và phê duyệt quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học cấp cả nước và cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; mục tiêu và tiêu chí chủ yếu để phân cấp và thành lập khu bảo tồn; trình tự, thủ tục lập, thẩm định dự án và quyết định thành lập khu bảo tồn; chế độ quản lý và bảo vệ, các chính sách đầu tư đối với các phân khu chức năng và vùng đệm; trách nhiệm và quyền lợi của các bên liên quan, đặc biệt là đối với cộng đồng dân cư sinh sống trong và xung quanh các khu bảo tồn. Khu bảo tồn được phân thành 4 loại, bao gồm vườn quốc gia; khu dự trữ thiên nhiên; khu bảo tồn loài – sinh cảnh; và khu bảo vệ cảnh quan. Căn cứ vào mức độ đa dạng sinh học, giá trị đa dạng sinh học, quy mô diện tích, khu bảo tồn được phân thành khu bảo tồn cấp quốc gia và cấp tỉnh để có chính sách quản lý, đầu tư phù hợp. Ngoài ra, Luật quy định về điều tra, đánh giá và xác lập chế độ phát triển bền vững đối với các hệ sinh thái tự nhiên trên biển, các vùng đất ngập nước tự nhiên, vùng núi đá vôi, vùng đất chưa sử dụng nhằm phục hồi và bảo vệ các hệ sinh thái tự nhiên, môi trường sống tự nhiên.

Thứ hai, quy định rõ và đầy đủ về bảo tồn và phát triển bền vững các loài sinh vật, bao gồm bảo vệ loài thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ và phát triển bền vững các loài sinh vật. Căn cứ vào tiêu chí, các loài hoang dã có giá trị đang bị đe dọa tuyệt chủng hoặc nguy cấp ở mức cao được đưa vào Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ và có chế độ quản lý, bảo vệ. Khu vực có loài thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ sinh sống tự nhiên thường xuyên hoặc theo mùa được điều tra, đánh giá để lập dự án thành lập khu bảo tồn. Quản lý và cơ chế, chính sách, thành lập cơ sở bảo tồn đa dạng sinh học nhằm mục đích nuôi, trồng loài thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ; cứu hộ loài hoang dã; và lưu giữ giống cây trồng, vật nuôi, vi sinh vật và nấm đặc hữu, nguy cấp, quý, hiếm có giá trị. Ngoài ra, Luật còn quy định cụ thể về việc khai thác các loài hoang dã; nuôi, trồng; trao đổi, xuất khẩu, nhập khẩu, mua, bán, tặng cho, lưu giữ, vận chuyển; cứu hộ loài thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ; bảo vệ cây trồng và vật nuôi đặc hữu hoặc có giá trị đang bị đe dọa tuyệt chủng; bảo vệ loài vi sinh vật và nấm đặc hữu hoặc có giá trị.

Thứ ba, quy định về trách nhiệm vụ quản lý nguồn gen và quản lý các họat động liên quan đến nguồn gen, việc lưu giữ và bảo quản lâu dài mẫu vật di truyền của các nguồn gen có giá trị, phát triển các ngân hàng gen, quản lý thống nhất thông tin và cơ sở dữ liệu về nguồn gen. Quy định rõ về trình tự, thủ tục hợp đồng, cấp phép tiếp cận nguồn gen. Đặc biệt là quy định rõ về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân được cấp phép tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích, đăng ký sở hữu đối với nguồn gen và tri thức truyền thống về nguồn gen.

Thứ tư, quy định về trách nhiệm quản lý rủi ro; lập, thẩm định báo cáo đánh giá rủi ro, cấp giấy chứng nhận an toàn; công khai thông tin về mức độ rủi ro và các biện pháp quản lý rủi ro do sinh vật biến đổi gen, mẫu vật di truyền của sinh vật biến đổi gen gây ra đối với đa dạng sinh học; và quản lý cơ sở dữ liệu về sinh vật biến đổi gen, mẫu vật di truyền của sinh vật biến đổi gen liên quan đến đa dạng sinh học.

Thứ năm, quy định rõ về trách nhiệm tổ chức điều tra, lập, thẩm định và ban hành Danh mục loài ngoại lai xâm hại. Kiểm soát việc nhập khẩu, lây lan, phát triển của loài ngoại lai xâm hại và việc nuôi trồng loài ngoại lai có nguy cơ xâm hại và công khai thông tin về loài ngoại lai xâm hại.Việc xác định vị trí địa lý, giới hạn và biện pháp tổ chức quản lý, bảo vệ hành lang đa dạng sinh học; và dịch vụ môi trường liên quan đến đa dạng sinh học là biện pháp, công cụ hiệu quả mới nhằm bảo tồn và phát triển bền vững đa dạng sinh học, được quy định trong Luật là những đóng góp quan trọng của Luật Đa dạng sinh học, vì đây là hai vấn đề hoàn toàn mới không những đối với Việt Nam mà cả các nước trong khu vực và thế giới.

Luật Đa dạng sinh học đã quy định thống nhất các vấn đề mâu thuẫn, chồng chéo hoặc bất cập trong công tác quản lý, bảo tồn và phát triển bền vững đa dạng sinh học. Quy định rõ trách nhiệm của các bên liên quan đến đa dạng sinh học. Ngoài ra, Luật Đa dạng sinh học còn nội luật hóa các nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý quy định trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Đây là những nét mới và là những đóng góp lớn của Luật Đa dạng sinh học. Vì vậy, có thể nói các nội dung chủ yếu của Công ước Đa dạng sinh học đã được nội luật hoá đầy đủ, toàn diện trong Luật Đa dạng sinh học của Việt Nam.

Thực thi các cam kết và nghĩa vụ quốc tế

Trên cơ sở các định hướng của Công ước đối với các mục tiêu bảo tồn, Việt Nam đã xây dựng được hệ thống các cơ quan quản lý, khung chính sách và pháp luật về đa dạng sinh học; hệ thống các khu bảo tồn đã được thành lập; các loài động thực vật nguy cấp quý hiếm được bảo vệ bằng pháp luật và thông qua các chương trình hành động; tiếp thu và đẩy mạnh thực hiện các vấn đề mới của bảo tồn đa dạng sinh học như an toàn sinh học, tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích có được từ việc sử dụng nguồn gen… Về việc thực thi Luật Đa dạng sinh học (ĐDSH), có thể tóm tắt như sau:

Trước năm 2017, ngoài luật Đa dạng sinh học, có 02 bộ luật khác liên quan tới quản lý bảo tồn ĐDSH là luật Thủy sản 2003 và luật Bảo vệ và phát triển rừng 2004. Từ đó, dẫn tới hình thành các văn bản pháp luật ĐDSH của Việt Nam theo 3 Luật này.

Việc ban hành Luật ĐDSH năm 2008 đã tạo lập hành lang pháp lý quản lý tổng thể và toàn diện các vấn đề về ĐDSH, thể hiện rõ qua việc xây dựng và ban hành 123 văn bản hướng dẫn thi hành Luật; Quy hoạch tổng thể phát triển ĐDSH; Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030… làm cơ sở cho việc ban hành chiến lược, quy hoạch phát triển ĐDSH của các địa phương và định hướng phát triển các khu bảo tồn ở địa phương.

Các khía cạnh của ĐDSH cũng như các nội dung quan trọng của bảo tồn ĐDSH trước đây chưa được pháp luật điều chỉnh hoặc điều chỉnh ở mức sơ sài thì đã được Luật ĐDSH 2008 quy định như: vấn đề quy hoạch bảo tồn ĐDSH; vấn đề tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích từ sử dụng nguồn gen; vấn đề kiểm soát sinh vật ngoại lai xâm hại, tiếp cận bảo tồn cảnh quan…

Các nội dung cơ bản của Luật Đa dạng sinh học đã được thực hiện như xây dựng và phê duyệt Quy hoạch tổng thể bảo tồn đa dạng sinh học của cả nước cũng như tại các đại phương đến năm 2020, định hướng đến năm 2030; Hệ thống khu BTTN đã được rà soát và công bố; Các HST rừng, kiểu ĐNN được kiểm kê và công bố; Nguồn lợi hải sản biển Việt Nam được điều tra kiểm kê; Hầu hết các VQG và các KBT có quy mô lớn đều có kế hoạch quan trắc các loài quý hiếm; đã thực hiện rà soát các cơ sở bảo tồn ĐDSH nhằm mục tiêu quy hoạch hệ thống cơ sở bảo tồn ĐDSH Việt Nam. Trên cơ sở đó, đã lập tiến độ xây dựng các cơ sở bảo tồn ĐDSH và hành lang ĐDSH thực hiện quy hoạch tổng thể ĐDSH của cả nước; đã công bố Danh mục 25 loài ngoại lai xâm hại,15 loài ngoại lai nguy cơ xâm hại đã xuất hiện trên lãnh thổ Việt Nam và 41 loài ngoại lai có nguy cơ xâm hại chưa xuất hiện trên lãnh thổ Việt Nam; đã ban hành một số các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn cụ thể thực hiện một số điều luật ĐDSH.

Tuy nhiên, Việt Nam vẫn là 1 trong 10 điểm nóng toàn cầu về đa dạng sinh học, trong đó đáng chú ý là sự suy giảm nhanh chóng đa dạng sinh học rừng. Nguyên nhân được xác định là do áp lực tăng dân số, khai thác quá mức các nguồn đa dạng sinh học, tác động của biến đổi khí hậu cũng như hệ thống quản lý nhà nước về đa dạng sinh học chưa thống nhất. Điều đó cho thấy, Việt Nam cần tiếp tục nỗ lực hơn nữa để bảo tồn đa dạng sinh học cũng như giảm thiểu các mối đe dọa đến đa dạng sinh học.

Những khó khăn và thách thức

Qua phân tích thực trạng và khảo sát cho thấy việc thực thi các nghĩa vụ của Công ước CBD hay nói cách khác là thực thi chính sách, pháp luật về ĐDSH hiện nay và trong thời gian tới gặp phải những khó khăn, thách thức sau:

Thứ nhất, sự không thống nhất giữa hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về ĐDSH giữa hai ngành Tài nguyên và môi trường và Nông nghiệp phát triển nông thôn đã dẫn tới sự chồng chéo trong hệ thống quản lý bảo tồn ĐDSH ở các cấp trung ương và địa phương và gây khó khăn cho việc áp dụng và thực thi pháp luật về ĐDSH.

Thứ hai, sau 09 năm thực hiện Luật Đa dạng sinh học, thực tế công tác quản lý nhà nước về đa dạng sinh học đã có nhiều thay đổi, một số nội dung đã không còn 67 phù hợp với thực tế hiện nay và cần được cập nhật, điều chỉnh, đặc biệt trong bối cảnh một số luật liên quan mới được Quốc hội thông qua năm 2017 như Luật Lâm nghiệp, Luật Thủy sản, Luật Quy hoạch, Luật Hình sự sửa đổi 2017… Một số vấn đề liên quan đến ĐDSH trong bối cảnh hội nhập quốc tế cần được xem xét sửa đổi, điều chỉnh và và bổ sung kịp thời trong Luật Đa dạng sinh học.

Công ước RAMSAR

Khái quát về Công ước và sự tham gia của Việt Nam

Công ước bảo tồn những vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế đặc biệt như là nơi cư trú của các loài chim nước (Công ước RAMSAR) được ký tại thành phố Ramsar, Iran vào năm 1971. Đây là một thỏa thuận liên Chính phủ nhằm cung cấp khung hoạt động cho các Kế hoạch hành động quốc gia, hợp tác quốc tế về bảo tồn, sử dụng khôn khéo đất ngập nước và các nguồn tài nguyên từ đất ngập nước. Công ước này có hiệu lực năm 1975 với số thành viên lên tới 170 quốc gia.

Mục đích của Công ước RAMSAR được các Bên tham gia thông qua năm 1999 và được điều chỉnh năm 2002 là “Bảo tồn và sử dụng một cách khôn khéo các vùng đất ngập nước thông qua hành động của địa phương, của khu vực, của quốc gia và hợp tác quốc tế nhằm góp phần đạt được mục tiêu phát triển bền vững trên toàn thế giới. Thành viên tham gia Công ước RAMSAR có nghĩa vụ chính như sau:

Chỉ định ít nhất một vùng đất ngập nước để đưa vào Danh sách các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế và duy trì đặc tính sinh thái của vùng đất ngập nước này.

Sử dụng khôn khéo đất ngập nước: lồng ghép các cân nhắc bảo tồn đất ngập nước vào quá trình quy hoạch sử dụng đất quốc gia và khuyến khích sử dụng khôn khéo các vùng đất ngập nước.

Khuyến khích và tăng cường công tác bảo tồn các vùng đất ngập nước thông qua việc thành lập các khu dự trữ thiên nhiên trên các vùng đất ngập nước và xây dựng các biện pháp bảo vệ nghiêm ngặt đối với khu RAMSAR và các khu dự trữ đất ngập nước có quy mô nhỏ và đặc biệt nhạy cảm.

Thúc đẩy hợp tác quốc tế về bảo tồn các vùng đất ngập nước, đặc biệt là các vùng đất ngập nước xuyên biên giới, các hệ thống nước cùng chia sẻ, các loài chung và viện trợ phát triển cho dự án đất ngập nước.

Bồi dưỡng truyền thông về đất ngập nước và ủng hộ các hoạt động của Công ước. Việt Nam là quốc gia thứ 50 trên thế giới và đầu tiên của khu vực ASEAN chính thức tham gia Công ước RAMSAR từ năm 1989.

Nội luật hóa, xây dựng chính sách, pháp luật

Sau khi trở thành thành viên của Công ước Ramsar, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm thực hiện các nghĩa vụ mà Công ước quy định, trong đó phải kể đến Nghị định số 109/2003/NĐ-CP ngày 23 tháng 9 năm 2003 của Chính phủ về Bảo tồn và Phát triển bền vững các vùng đất ngập nước. Có thể nói, đây là văn bản pháp lý đầu tiên quy định trực tiếp về quản lý đất ngập nước để thực thi Công ước RAMSAR. Nghị định đã đi vào cuộc sống 15 năm sau khi ban hành, các điều của Nghị định đã được cụ thể hóa thành các chiến lược, chính sách và kế hoạch hành động của ngành tài nguyên và môi trường và các Bộ, ngành và địa phương liên quan trên phạm vi cả nước.

Đến nay, Việt Nam có 4 Luật đề cập đến việc quản lý đất ngập nước, như: Luật Thủy sản (2003, 2017); Luật Bảo vệ và Phát triển rừng (2004), nay là Luật Lâm nghiệp (2017), Luật Bảo vệ môi trường (2005, 2014), Luật Đa dạng sinh học (2008) và nhiều văn bản hướng dẫn các Luật trên. Luật Đa dạng sinh học là văn bản luật đầu tiên quy định trực tiếp đến vùng đất ngập nước và các hoạt động kiểm kê, xác lập chế độ phát triển bền vững các vùng đất ngập nước tự nhiên ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, hệ thống phân loại đất ngập nước đã được ban hành với 26 kiểu đất ngập nước thuộc ba nhóm đất ngập nước biển và ven biển, đất ngập nước nội địa và đất ngập nước nhân tạo, phục vụ cho việc kiểm kê và quản lý hiệu quả các vùng đất ngập nước trên toàn quốc.

Nhằm nội luật hóa các quy định của Công ước RAMSAR, nội dung Nghị quyết các kỳ họp COP và đáp ứng với yêu cầu về quản lý đất ngập nước của Việt Nam trước các áp lực phát triển và xu thế biến đổi khí hậu toàn cầu, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 66/2019/NĐ-CP về bảo tồn và sử dụng bền vững đất ngập nước thay thế Nghị định 109/2003/NĐ-CP. Nghị định mới này đã góp phần kiện toàn hành lang pháp lý về quản lý ĐNN ở Việt Nam, đồng thời tăng cường hiệu quả thực thi Công ước này ở Việt Nam.

Thực thi các cam kết và nghĩa vụ quốc tế

Kể từ khi Nghị định số 109/2003/NĐ-CP và Luật Đa dạng sinh học có hiệu lực thi hành, công tác quản lý các vùng đất ngập nước đã đạt được một số thành tích đáng kể như: Thực hiện điều tra thống kê về đất ngập nước trên cả nước (2003 và 2016); quy hoạch mạng lưới Khu bảo tồn đất ngập nước; số lượng khu đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế (khu RAMSAR) từ 1 khu (Xuân Thủy, tỉnh Nam Định năm 1989) tăng lên thành 9 khu vào năm 2018 (thêm khu Bàu Sấu – VQG Cát Tiên tỉnh Đồng Nai; VQG Ba Bể – tỉnh Bắc Kạn; VQG Tràm Chim – tỉnh Đồng Tháp; VQG Mũi Cà Mau – Tỉnh Cà Mau; VQG Côn Đảo thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; KBTTN ĐNN Láng Sen tỉnh Long An; VQG U Minh Thượng tỉnh Kiên Giang và Khu bảo tồn thiên nhiên Vân Long tỉnh Ninh Bình; nhiều mô hình bảo tồn và sử dụng bền vững đất ngập nước đã được thực hiện thành công.

Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tiến hành kiểm kê, đánh giá hiện trạng các vùng đất ngập nước trên toàn quốc và đề xuất được 74 vùng đất ngập nước quan trọng cần khoanh vi, bảo vệ. Cũng trong năm 2016, Nhóm công tác quốc gia về đất ngập nước được thành lập để tham mưu xây dựng các văn bản, chính sách và các hoạt động về quản lý, bảo tồn và sử dụng khôn khéo đất ngập nước. Tại một số địa phương như Thái Bình, Thừa Thiên – Huế, Nhóm công tác đất ngập nước cũng đã được thành lập với vai trò tăng cường tham mưu về công tác quản lý đất ngập nước cho mỗi tỉnh.

Những khó khăn và thách thức

Qua phân tích thực trạng và khảo sát cho thấy việc thực thi các nghĩa vụ của Công ước RAMSAR hay nói cách khác là thực thi chính sách, pháp luật về đất ngập nước hiện nay và trong thời gian tới gặp phải những khó khăn, thách thức sau:

Thứ nhất, sự không thống nhất giữa hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về ĐDSH nói chung và đất ngập nước nói riêng giữa hai ngành Tài nguyên và môi trường và Nông nghiệp phát triển nông thôn đã dẫn tới sự chồng chéo trong hệ thống quản lý và gây khó khăn cho việc áp dụng và thực thi pháp luật về ĐDSH và đất ngập nước.

Thứ hai, nguồn lực tài chính và nhân lực phục vụ cho việc thực thi các nghĩa vụ của Công ước trong những năm vừa qua còn nhiều hạn chế. Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng hiện nay, với thực tế là nghĩa vụ của các thành viên tham gia công ước tiếp tục được bổ sung sau mỗi kỳ họp COP, để thực thi một cách nghiêm túc và hiệu quả Công ước RAMSAR, thời gian tới Việt Nam cần có sự chuẩn bị và bố trí đủ nguồn lực cho việc thực hiện Công ước này.

Thứ ba, sự phối hợp liên ngành trong việc thực hiện Công ước RAMSAR nói chung và quản lý các khu bảo tồn, khu RAMSAR nói riêng còn hạn chế, có thể là chưa thực chất và hiệu quả do thiếu một cơ chế phối hợp được thiết lập giữa hai Bộ Tài nguyên và Môi trường, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và một số Bộ, ngành liên quan khác.

Công ước CITES

Khái quát về Công ước và sự tham gia của Việt Nam

Công ước về thương mại quốc tế các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp (Công ước CITES) một hiệp ước đa phương. Bản thảo của nó được thông qua năm 1963 trong một cuộc họp các thành viên của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN). Công ước được đưa ra ký kết năm 1973 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 1975. Tới nay, với 175 quốc gia thành viên, CITES là Hiệp ước quốc tế về bảo tồn có số lượng thành viên lớn nhất toàn cầu. Mục đích của Công ước CITES nhằm đảm bảo rằng việc thương mại quốc tế các tiêu bản của các loài động vật và thực vật hoang dã mà không đe dọa sự sống còn của các loài này trong tự nhiên, và nó cũng đưa ra nhiều cấp độ khác nhau để bảo vệ hơn 34.000 loài động và thực vật. Quy định của CITES mang tính pháp lý được áp dụng trên toàn thế giới đối với tất cả các nước thành viên, mỗi nước thành viên phải đảm bảo rằng luật, các quy định quốc gia hài hoà hoá với những quy định của CITES. Các nước thành viên khi tham gia Công ước có trách nhiệm thực thi các nghĩa vụ sau:

Xây dựng Danh mục quý hiếm, nguy cấp xếp theo Phụ lục của Công ước.

Áp dụng kiểm soát biện pháp của quốc gia nhập, xuát khẩu theo cam kết tại Công ước tại các Điều 3,4,5, 8, 9, 10 và của Công ước.

Áp dụng Giấy phép xuất nhập khẩu.

Có 1 số miễn trừ biện pháp liên quan đến thương mại.

Cử đầu quốc gia mối thực thi Công ước

Tham dự các cuộc họp thường niên của các Bên tham gia Công ước.

Việt Nam tham gia vào Công ước CITES năm 1994 và trở thành thành viên thứ 121/178 quốc gia. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn được giao là Cơ quan đầu mối quốc gia thực hiện Công ước. Các cơ quan khoa học CITES bao gồm Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Trung tâm nghiên cứu Tài nguyên và môi trường, Viện Khoa học Lâm nghiệp, Viện nghiên cứu Hải sản.

Nội luật hóa, xây dựng chính sách, pháp luật

Để thực thi các nghĩa vụ đã cam kết trong khuôn khổ Công ước CITES, Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống chính sách về bảo vệ và buôn bán động thực vật hoang dã tương (BBĐTVHD) đối đầy đủ ở nhiều mức độ từ chính sách, văn bản luật và dưới luật. Hệ thống chính sách, quy định pháp luật về BBĐTVHD đã được ban hành tương đối sớm và luôn được bổ sung, hoàn thiện để phù hợp với tình hình thực tế ở Việt Nam và phù hợp với các Công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia như CITES, CBD và Nghị định thư CARTAGENA cụ thể như: Bộ Luật hình sự 2017 và Luật Lâm nghiệp.

Tại Điều 244 của Bộ Luật hình sự quy định việc buôn bán, tàng trữ, kinh doanh các mẫu vật động vật hoang dã quý, hiếm có thể bị xử lên đến 15 năm tù. Không những vậy, Bộ luật cũng có nhưng Điều khoản riêng quy định tội phạm buôn bán, tàng trữ, chế biến, buôn bán mẫu vật ngà voi, sừng tê giác, hổ. Việc buôn bán, tàng trữ, kinh doanh với 50g sừng tê giác, 02kg ngà voi sẽ bị truy tố hình sự.

Bên cạnh đó, Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị định liên quan, quy định và hướng liên quan đến việc bảo vệ các loài động, thực vật hoang dã, bao gồm: Nghị định số 82/2006/NĐ-CP về quản lý hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh, nhập nội từ biển gây nuôi và trồng cấy nhân tạo các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp; Nghị định 35/2019/NĐ-CP ngày 25 tháng 04 năm 2019 của Chính phủ Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Lâm nghiệp; Nghị định số 06/2019/NĐ của Chính phủ ngày 22 tháng 01 năm 2019 về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm và thực thi Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp; Nghị định số 01/2019/NĐ-CP ngày 01 tháng 01 năm 2019 của Thủ tướng Chính phủ về Kiểm lâm và Lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng; Nghị định số 156/2018/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Lâm nghiệp; Nghị định 32/2006/NĐ-CP ngày 30 tháng 03 năm 2006 của Chính phủ về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm;…

Nhìn chung các chính sách của Việt Nam về BBĐTVHD đã được ban hành ngày một hoàn thiện về số lượng, nội dung, phù hợp và đáp ứng với thực tế phát triển của hoạt động BBĐTVHD. Sự ra đời của các chính sách và văn bản pháp luật trên đã tạo ra một hành lang pháp lý quan trọng cho việc quản lý cũng như phát triển việc nuôi trồng, khai thác và buôn bán ĐTVHD ở Việt Nam. Các chính sách và văn bản được ban hành liên tục qua nhiều thời kỳ đã đáp ứng được yêu cầu thực tế trong quá trình phát triển của pháp luật và kinh tế quốc gia. Hệ thống chính sách đó cũng đáp ứng được yêu cầu về xây dựng hành lang pháp lý để làm cở sở cho việc thực thi các Công ước và cam kết quốc tế về bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường và quản lý BBĐTVHD.

Thực thi các cam kết và nghĩa vụ quốc tế

Cùng với thể chế và hệ thống chính sách, quy định pháp luật được xây dựng và dần được hoàn thiện, cùng với sự quan tâm và quyết liệt của Chính phủ và hệ thống bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước liên quan, có thể nói Việt Nam trong thời gian qua đã có những nỗ lực rất to lớn trong việc thực thi các nghĩa vụ đã cam kết trong khuôn khổ Công ước CITES.

Những nỗ lực của Việt Nam một mặt đã đáp ứng được các yêu cầu và trách nhiệm của một quốc gia thành viên của Công ước, mặt khác rất quan trọng đó là góp phần bảo vệ môi trường thiên nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học của đất nước. Những nỗ lực và đóng góp của Việt Nam thời gian vừa qua thông qua việc thực thi Công ước đã được quốc tế công nhận. Việt Nam đã tổ chức thực thi tốt các quyền và nghĩa vụ của một nước thành viên, được Ban thư ký CITES quốc tế xếp vào loại I trong việc thực thi Công ước. Hoạt động gây nuôi sinh sản, trồng cấy nhân tạo các loài động vật, thực vật hoang dã ngày càng phát triển trên khắp cả nước với trên 6.000 cơ sở, gây nuôi và trồng cấy hơn 70 loài động vật, thực vật hoang dã.

Những khó khăn và thách thức

Qua phân tích thực trạng và khảo sát cho thấy việc thực thi các nghĩa vụ của Công ước CITES hay nói cách khác là thực thi chính sách, pháp luật liên quan đến bảo vệ các loài động, thực vật hoang dã trong khuôn khổ Công ước hiện nay và trong thời gian tới gặp phải những khó khăn, thách thức sau:

Thứ nhất, tồn tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật do nhiều cơ quan ban hành về đa dạng sinh học nhưng tiếp cận theo các hệ thống pháp luật khác nhau (pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng, pháp luật về thủy sản,..) nên gây khó khăn cho công tác thực thi, áp dụng pháp luật. Một số văn bản pháp luật ban hành không nêu trách nhiệm thực hiện rõ ràng và thiếu sự liên kết và tham chiếu dẫn đến sự không đồng bộ, khó khăn trong quá trình thực thi.

Thứ hai, các chính sách được xây dựng chưa chú trọng các hoạt động khuyến khích hoặc trợ giúp thực sự, đặc biệt trợ giúp về nguồn giống (hợp pháp và có chất lượng ), kỹ thuật và vốn để phát triển, nên việc thực thi còn mang nặng tính thừa hành pháp luật, chứ chưa chú trọng đến việc khuyến khích các khía cạnh tích cực của việc kinh doanh, nhân giống và khai thác bền vững.

Thứ ba, năng lực phát hiện vi phạm pháp luật của cơ quan pháp luật còn hạn chế. Lực lượng chuyên trách trong lĩnh vực này là kiểm lâm, cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường, quản lý thị trường, hải quan, biên phòng; tuy nhiên do lực lượng mỏng, trang thiết bị phương tiện còn hạn chế, khả năng đấu tranh đối với loại hình vi phạm này của lực lượng chuyên trách còn chưa theo kịp các thủ đoạn tinh vi, chuyên nghiệp của các đối tượng vận chuyển, buôn bán trái phép các ĐVHD nguy cấp, quý, hiếm.

Thứ tư, nhận thức, trình độ dân trí và nhận thức, ý thức bảo vệ môi trường, tài nguyên đa dạng sinh học của người dân còn chưa cao. Công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức và pháp luật về bảo vệ động vật hoang dã chưa được quan tâm đúng mức nên tình trạng sử dụng bảo vệ động vật hoang dã hiện còn phổ biến ở một số khu vực. Tiêu dùng sản phẩm bảo vệ động vật hoang dã quý, hiếm vẫn còn là thị hiếu tiêu dùng của một bộ phận người dân có điều kiện kinh tế khá giả nhưng chưa bị xã hội lên án.

Thứ năm, hạn chế trong chia sẻ thông tin từ các nước xuất xứ, trong khi các container hàng trước khi vận chuyển về Việt Nam đã được kẹp chì và vận chuyển lòng vòng qua nhiều nước trung gian.

Thứ sáu, nhu cầu tiêu dùng động vật hoang dã trên thế giới vẫn còn cao, tội phạm động vật hoang dã ngày một tinh vi, quốc tế hoá với các thủ đoạn dấu hàng, thường xuyên thay đổi lộ trình, điểm đến.

Công ước UNCCD

Khái quát về Công ước và sự tham gia của Việt Nam

Công ước Chống sa mạc hoá của Liên Hợp Quốc được đưa ra tại Hội nghị thượng đỉnh về môi trường và phát triển tại Rio de Janeiro, Brazin vào tháng 6 năm 1992.Sau hơn một năm tham khảo ý kiến đóng góp của hơn 100 nước trên thế giới, cuối cùng Công ước đã được hoàn chỉnh vào tháng 6 năm 1994. Công ước được mở cho các nước ký tại Pari vào ngày 14-15 tháng 10 năm 1994. Đến năm 2019 có tổng cộng 197 thành viên bao gồm các quốc gia, vùng lãnh thổ và các tổ chức quốc tế khác. Công ước UNCCD nhằm vào các mục tiêu cụ thể sau:

Xây dựng các chương trình quốc gia, tiểu vùng và vùng để phòng chống khô hạn và sa mạc hoá

Kêu gọi cộng đồng quốc tế hỗ trợ tài chính cho việc chống sa mạc hoá

Trao đổi thông tin, kỹ thuật và đào tạo về chống sa mạc hoá

Ngăn chặn hậu quả sa mạc hoá dẫn đến di cư ồ ạt, các loài động thực vật bị tiệt chủng, khí hậu thay đổi

Các thành viên khi tham gia Công ước cần tuân thủ và thực hiện nghiêm túc các nghĩa vụ chính bao gồm: Xây dựng một phương pháp đồng bộ nhằm giải quyết các vấn đề về lý học, sinh học, kinh tế xã hội của quá trình sa mạc hoá. Quan tâm đến các nước đang phát triển hiện đang bị ảnh hưởng bởi sa mạc và khô hạn, buôn bán quốc tế, nợ nước ngoài để xây dựng một nền kinh tế bền vững. Kết hợp chiến lược xoá đói giảm nghèo với phòng chống sa mạc hoá. Tăng cường hợp tác giữa các nước bị sa mạc và hạn hán để bảo vệ môi trường, nguồn đất và nước. Tăng cường hợp tác quốc tế, vùng và tiểu vùng. Hợp tác giữa các tổ chức liên chính phủ. Thành lập các tổ chức cần thiết, tránh sự trùng lập. Tăng cường sử dụng hệ thống tài chính song phương và đa phương hiện có để có thể huy động và hỗ trợ các nước bị ảnh hưởng bởi sa mạc hoá và hạn hán.

Việt Nam tham gia và ký kết công ước từ năm 1998 là thành viên thứ 134 của Công ước. Cơ quan đầu mối quốc gia thực hiện Công ước UNCCD là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Tổng cục Lâm nghiệp).

Nội luật hóa, xây dựng chính sách, pháp luật

Ngay sau khi Việt Nam tham gia công ước chống sa mạc (Công ước UNCCD). Chính phủ đã giao cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn xây dựng Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Công ước UNCCD. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã triển khai xây dựng Chương trình hành động Quốc gia phòng chống sa mạc hoá giai đoạn 2006 – 2010 và định hướng đến năm 2020, Chương trình hành động được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thông qua Quyết định số 204/2006/QĐ-TTg ngày 02 tháng 09 năm 2006.

Năm 2017 Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn hưởng ứng kêu gọi của Ban thư ký công ước xây dựng và phê duyệt Đề án xác định mục tiêu tự nguyện cân bằng suy thoái đất quốc gia (LDN) giai đoạn 2017-2020 tầm nhìn 2030 bằng Quyết định số 5081/QĐ-BNN-TCLN ngày 06 tháng 12 năm 2017 với mục tiêu cân bằng suy thoái đất tại Việt Nam là thực hiện mục tiêu phát triển bền vững thông qua vận hành các Chương trình, Kế hoạch hành động quốc gia nhằm chống lại sự thoái hoá của đất đai. Với tần xuất 2 năm/lần, Việt Nam đều xây dựng các báo cáo Quốc gia về sa mạc hoá, thoái hoá đất theo yêu cầu của Ban thư ký Công ước.

Trong thời gian tới, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có kế hoạch tiếp tục điều chỉnh, cập nhật Chương trình hành động quốc gia phòng chống sa mạc hoá giai đoạn 2020-2025 tầm nhìn 2030 và Kế hoạch Khô hạn Quốc gia giai đoạn 2017 – 2020 tầm nhìn 2025.

Thực thi các cam kết và nghĩa vụ quốc tế

Để thực hiện Công ước Việt Nam đã xây dựng và triển khai Chương trình hành động quốc gia chống sa mạc hoá giai đoạn 2006 – 2010 và định hướng đến năm 2020 với các nội dung chính. Một số hoạt động và kết quả chính của việc thực hiện Chương trình hành động cụ thể như sau:

Thứ nhất, hoàn thiện cơ sở pháp lý bảo vệ tài nguyên đất, tài nguyên rừng và tài nguyên nước để phòng, chống sa mạc hoá với 3 hoạt động được giao cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ kế hoạch đầu tư.

Thứ hai, nâng cao nhận thức, đào tạo nguồn nhân lực và tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở nghiên cứu phục vụ công tác phòng, chống sa mạc hoá với 5 hoạt động được giao cho các Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam.

Thứ ba, điều tra, đánh giá thực trạng sa mạc hoá và nghiên cứu xác định nguyên nhân chủ yếu gây sa mạc hoá, đề xuất giải pháp phòng, chống sa mạc hoá tại Việt Nam.

Thứ tư, tổ chức các hoạt động kinh tế, chuyển giao công nghệ bảo vệ, quản lý và phát triển tài nguyên đất, tài nguyên rừng và tài nguyên nước góp phần phát triển kinh tế-xã hội, xoá đói, giảm nghèo vùng đất liên quan sa mạc hoá với 6 nội dung hoạt động chủ yếu do các tỉnh và các doanh nghiệp thực hiện

Thứ năm, hợp tác quốc tế để thực hiện Công ước chống sa mạc hoá với 3 hoạt động chính do Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chịu trách nhiệm phối hợp với các Bộ khác thực hiện.

Các hoạt động cụ thể mà Việt Nam đã tổ chức thực hiện từ khi tham gia đến nay bao gồm: Báo cáo định kỳ 2 năm một lần theo mẫu do Ban thư ký của Công ước hướng dẫn. Xây dựng Kế hoạch hành động quốc gia chống sa mạc hoá. Xây dựng và thực hiện mục tiêu cân bằng suy thoái đất (LDN). – Xây dựng và thực hiện Kế hoạch Khô hạn quốc gia (NDP). Tham gia đầy đủ các cuộc họp các thành viên của Công ước (COP). Tham gia các cuộc họp của Hội đồng khoa học của Công ước (CST). Đóng góp liên nhiễm hàng năm cho Ban thư ký Công ước.

Những khó khăn và thách thức

Qua phân tích thực trạng và khảo sát cho thấy việc thực thi các nghĩa vụ của Công ước UNCCD hay nói cách khác là thực thi chính sách, pháp luật liên quan đến sa mạc hóa trong khuôn khổ Công ước hiện nay và trong thời gian tới gặp phải những khó khăn, thách thức sau:

Mặc dù Chương trình hành động đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt với yêu cầu tham gia của nhiều Bộ, ngành và cơ quan từ trung ương đến địa phương, tuy nhiên nguồn ngân sách cho triển khai thực hiện Chương trình không được làm rõ và bố trí, cũng như chưa thực sự nhận được sự quan tâm của các Bộ và các cơ quan, dẫn đến tình trạng nhiều nội dung của Chương trình không được thực hiện.

Nguồn lực đầu tư cho việc thực hiện Công ước, cụ thể là cho việc thực hiện các hoạt động của Chương trình hành động hạn chế, chủ yếu dựa vào nguồn tài chính hỗ trợ quốc tế và sự lồng ghép với các chương trình hoạt động khác do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn triển khai thực hiện; đầu tư việc vận hành của Cơ quan đầu mối quốc gia còn hạn chế, hiện nay chỉ có 1 – 2 nhân viên hợp đồng cùng 1 – 2 cán bộ kiêm nhiệm.

Nhận thức của các cơ quan quản lý nhà nước trong thời gian trước đây, khi chưa xuất hiện nhiều hiện tượng thiên tai liên quan đến khô hạn ít được quan tâm. Ngay cả nhận thức của người dân còn hạn chế, khái niệm sa mạc hoá trước đây được hiểu chưa thực sự đúng. Hiện nay Công ước mở rộng phạm vi và nội dung hoạt động sang việc phòng chống suy thoái, thoái hoá đất (trước đây chỉ quan tâm đến khô hạn), do vậy cần phải có sự quan tâm bố trí về nguồn lực đối với những nghĩa vụ mới của Công ước. – Chương trình chưa được phổ biến rộng rãi và chưa có các chương trình truyền thông cụ thể đến các địa phương, nên việc thực hiện còn hạn chế.

Một số điều ước quốc tế khác có liên quan

Ngoài những Công ước nêu trên, hội nhập quốc tế trong lĩnh vực này còn có một số khuôn khổ khác như Nghị định thư CARTAGENA và Nghị định thư NAGOYA do Bộ Tài nguyên và Môi trường là Cơ quan đầu mối quốc gia.

 Nghị định thư CARTAGENA

Nghị định thư CARTAGENA về An toàn sinh học thuộc Công ước Đa dạng sinh học, đã được hoàn thiện và thông qua tại Montreal, Canada ngày 29 tháng 01 năm 2000 trong cuộc họp của các bên tham gia Công ước, với 170 thành viên và có hiệu lực từ ngày 11/09/2003. Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Nghị định thư kể từ ngày 19 tháng 4 năm 2004. Bộ Tài nguyên và Môi trường được Chính phủ giao làm cơ quan đầu mối quốc gia đối với Nghị định thư này.

Nghị định thư thiết lập những cam kết bắt buộc khác nhau mà tất cả các thành viên phải tuân thủ, trong đó có Việt Nam với tư cách là thành viên đang phát triển. Những cam kết quan trọng nhất bao gồm thủ tục thỏa thuận thông báo trước và thủ tục đối với các sinh vật biến đổi gen được dùng làm thực phẩm, thức ăn chăn nuôi hoặc để chế biến (LMOs-FFP). Ngoài ra, cũng phải kể tới những cam kết khác liên quan đến vận chuyển các sinh vật biến đổi gen hoặc báo cáo các biện pháp được tiến hành để thực hiện Nghị định thư. Một số nghĩa vụ cụ thể cần thực hiện khi tham gia Nghị định thư gồm:

Thủ tục Thoả thuận thông báo trước (AIA) Nghị định thư Cartagena quy định thủ tục Thoả thuận thông báo trước (Advanced Informed Agreement- gọi tắt là AIA) để đảm bảo các thành viên có thể đưa ra quyết định được thông báo trước về việc nhập khẩu các sinh vật biến đổi gen vào lãnh thổ quốc gia mình để trực tiếp đưa vào môi trường. Việt Nam cũng cần xây dựng các thủ tục và các cơ quan theo yêu cầu.

Thủ tục đối với các sinh vật biến đổi gen được sử dụng làm thực phẩm, thức ăn chăn nuôi hoặc để chế biến Đối với những sinh vật biến đổi gen được sử dụng trực tiếp làm thực phẩm, thức ăn chăn nuôi, hoặc để chế biến (LMOs-FFP), Điều 11 thiết lập một thủ tục đơn giản hơn cho việc vận chuyển qua biên giới. Một thành viên phải thông báo cho các thành viên khác thông qua Trung tâm thông tin an toàn sinh học trong vòng 15 ngày kể từ ngày ra quyết định về việc sử dụng trong nước mình các sinh vật biến đổi gen có thể sẽ được vận chuyển qua biên giới. Quyết định của thành viên nước nhập khẩu cho phép hay không cho phép việc nhập khẩu LMOs-FFP được đưa ra phù hợp với các quy định pháp luật trong nước của thành viên đó, nhưng phải phù hợp với mục tiêu của Nghị định thư. Các thành viên đang phát triển, trong trường hợp chưa có quy định pháp luật liên quan, có thể thông qua Trung tâm thông tin an toàn sinh học tuyên bố rằng quyết định về việc nhập khẩu lần đầu các LMOs-FFP sẽ dựa trên đánh giá rủi ro được quy định trong Nghị định thư, cũng như thời hạn ra quyết định. Trong trường hợp không có đủ những thông tin và hiểu biết có liên quan, nước nhập khẩu có thể sử dụng nguyên tắc phòng ngừa để đưa ra quyết định về việc nhập khẩu các LMOs-FFP.

Những yêu cầu về vận chuyển qua biên giới đối với các sinh vật biến đổi gen, theo Điều 18, các Thành viên phải tiến hành hai loại biện pháp đối với việc vận chuyển qua biên giới các sinh vật biến đổi gen.

Nghị định thư NAGOYA

Nghị định thư Nagoya về tiếp cần nguồn gen và chia sẻ công bằng, hợp lý lợi ích từ việc sử dụng nguồn gen (gọi tắt là Nghị định thư Nagoya về ABS) đã được thông qua tại Hội nghị các bên tham gia Công ước Đa dạng sinh học tại Nagoya – Nhật Bản năm 2010, với 93 nước thành viên tham gia, trong đó có Việt Nam. Việt Nam chính thức gia nhập là thành viên của Nghị định thư từ ngày 23 tháng 04 năm 2014. Nghị định thư Nagoya có hiệu lực từ ngày 12 tháng 10 năm 2014. Chính phủ giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan đầu mối quốc gia đối với Nghị định thư này. Nghị định thư được thiết lập với mục tiêu chia sẻ công bằng, hợp lý lợi ích phát sinh từ việc sử dụng nguồn gen nhằm đóng góp cho công tác bảo tồn và sử dụng bền vững các thành phần của đa dạng sinh học.

Nghị định thư Nagoya về ABS lần đầu tiên chính thức điều chỉnh một số vấn đề cơ bản đảm bảo việc tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích (ABS) được thực thi như: các định nghĩa về mục tiêu, thuật ngữ, phạm vi và mối quan hệ với các văn kiện quốc tế khác, các nguyên tắc và các yêu cầu chính về chia sẻ lợi ích công bằng và hợp lý khi tiếp cận nguồn gen, tri thức truyền thống, các cơ chế để thực thi bao gồm cả cơ chế chia sẻ lợi ích đa phương và cơ chế trao đổi thông tin về ABS, các biện pháp để thúc đẩy nâng cao nhận thức, xây dựng năng lực và hoạt động chuyển giao công nghệ về ABS. Đây được xem như những thành tựu chính trong sự phát triển về luật pháp và chính sách quốc tế về ABS.

Theo Monre.gov.vn

Chi sẻ.

Đã đóng bình luận.